Bài viết hay: Về một số thuật ngữ triết học, chính trị – xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Bài viết của PGS. TS. Nguyễn Tấn Hùng, Đại học Đà Nẵng, trên Tạp chí Triết học, 4-2009.

Nguồn thứ cấp từ chungta.com

Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị – xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.

Các thuật ngữ triết học, chính trị – xã hội trong tiếng Việt tuyệt đại đa số có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chủ yếu được dịch trực tiếp từ các thứ tiếng: Hy Lạp (H), Latinh (L), Anh (A), Pháp (P), Đức (Đ), Nga (N), hoặc gián tiếp thông qua tiếng Trung Quốc (TQ). Tuy nhiên, việc dịch các thuật ngữ này nhiều khi không chính xác, cách phiên âm không thống nhất, do đó dẫn đến những hiểu lầm hoặc giải thích không đúng. Mặt khác, đa số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận triết học, chính trị, xã hội của chúng ta, do ít am hiểu ngoại ngữ nên không thấy có vấn đề gì trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của mình và cũng không có thói quen tìm hiểu kỹ nguồn gốc của chúng trước khi sử dụng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ ra một số trường hợp không thống nhất và bất cập về cách phiên âm, dịch nghĩa các thuật ngữ.

1. Cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất

Tên các quốc gia, địa phương trên thế giới mà chúng ta hiện đang sử dụng được phiên âm bằng hai cách: 1) đọc theo phiên âm Hán – Việt từ cách phiên âm của người Trung Quốc; và 2) phiên âm trực tiếp từ tiếng nước ngoài. Nhiều thuật ngữ trước đây được phiên âm theo cách thứ nhất nay đã chuyển sang cách thứ hai. Thí dụ: Mã Khắc Tư nay là Các Mác (Karl Marx), Mã Lai – Malayxia (Malaysia), Phi Luật Tân – Philippin (Philippines),Gia Nã Đại– Canađa (Canada:), Mễ Tây Cơ – Mêhicô (Mexico), v.v.. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thuật ngữ đã dùng quen nên khó thay đổi, chẳng hạn: nước Anh (A: England) (thật ra, tên gọi chính thức của quốc gia này là United Kingdom (Vương quốc thống nhất) gồm 4 nước, trong đó có nước Anh) ; Luân Đôn (L: London); Đức (Đ: Deutschland); Tây Ban Nha (TBN: Espana);Bồ Đào Nha (B: Portuguesa), v.v.. Cách gọi này tuy quen thuộc nhưng lại gây không ít khó khăn cho những người đi học tập, tham quan ở những nơi nói trên

Có một số tên người có nguồn gốc từ hai cách phiên âm khác nhau. Thí dụ “Bụt” và “Phật” trong tiếng Việt tuy cùng một nghĩa nhưng có hai nguồn gốc phiên âm khác nhau. “Bụt” được phiêm âm trực tiếp từ tiếng Ấn Độ “Buddha”; còn “Phật” cũng từ “Buddha” nhưng được phiên âm sang tiếng Trung Quốc và đọc theo ngữ âm Hán – Việt là “Phật Đà” rồi sau đó được rút gọn thành “Phật”. Các từ “Kitô” và “Cơ Đốc” cũng có nguồn gốc tương tự như vậy. “Kitô” được phiên âm trực tiếp từ tiếng Hy Lạp “Χριστός” (đọc là Khristós, tiếng Latinh là Christus, tiếng Pháp, Anh là Christ). Kitô là tước hiệu, không phải là họ, Giêxu (Jesus) mới là tên. “Cơ Đốc” cũng từ nguồn gốc đó, nhưng được phiên âm sang tiếng TQ rồi được đọc theo âm Hán – Việt. Rất tiếc là nhiều người đã nghĩ Cơ Đốc giáo và Kitô giáo là hai tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, “Thiên Chúa giáo”, “Hồi giáo” là những cách gọi sai của chúng ta. Kitô giáo, Cơ Đốc giáo là tên gọi chung (có thể là Công giáo hay Tin Lành); còn Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo là tên những giáo phái của Kitô giáo, sau đã tách ra thành những tôn giáo độc lập. “Hồi giáo” (tôn giáo của người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc, gọi theo tên một bộ tộc theo tôn giáo này; thật ra, tôn giáo này có tên là Islam.

Cũng do việc phiên âm từ các thứ tiếng khác nhau, nên đã xảy ra trường hợp nhầm lẫn, một tác giả được biên soạn thành hai mục từ khác nhau, với hai tên khác nhau. Chẳng hạn, Tômát Aquintrong “Từ điển Triết học” của Cung Kim Tiến. Để hiểu nguồn gốc của sai lầm này, chúng ta hãy trở lại với cách gọi tên các danh nhân phương Tây. Từ Hy Lạp Cổ đại đến thời Trung cổ, các danh nhân chỉ được gọi trực tiếp bằng tên (không có họ), để tránh sự nhầm lẫn giữa nhiều người có cùng tên, người ta thêm địa danh quê hương, chẳng hạn Talet ở Milê (Thales of Miletus),Hêraclit ở Êphesơ (Heraclitus of Ephesus), Zênôn ở Elê (Zeno of Elea) để phân biệt với Zênôn ở Xiti (Zeno of Citium), Điôgien ở Laect (Diogenes Laertius) để phân biệt với Điôgien ở Xinôp(Diogenes of Sinope). Tômát – nhà triết học kinh viện Kitô giáo Trung cổ, sinh ở Aquino, Italia nên gọi là Tômat Aquin hay Tômat Aquinô; trong tiếng Anh, tên nhà thần học này là Thomas Aquinas (hay Thomas of Aquin, Thomas of Aquino). Trong phần lớn các tài liệu tiếng Việt hiện nay, tên của nhà thần học này được phiên âm từ tiếng Pháp: Thomas d’Aquin (cũng có nghĩa là Tômat ở Aquin) đọc là Tôma Đacanh. Trong tiếng Nga, nhà triết học này được phiên âm làФома Акви́нский (đọc là Phôma Akvinski, cũng có nghĩa là Tômát ở Aquin), có lẽ vì thế mà Từ điển Triết học Cung Kim Tiến đã nhầm và biên soạn thành hai tác giả (hai mục từ) khác nhau là“Tôma ở Ácvinô” (từ tiếng Nga Фома Акви́нский) và “Tômat Đacanh” (từ tiếng Pháp Thomas d’Aquin) (1).

2. Về việc phiên dịch các thuật ngữ: một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu thì mới sử dụng đúng được.

– Một số thuật ngữ dịch tuy phản ánh được nội hàm của khái niệm gốc, nhưng không sát với thuật ngữ gốc của nó. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi dịch một khái niệm, người ta chỉ cố gắng đảm bảo nội hàm, còn về tên thuật ngữ thì lại đi tìm một tên khác, miễn là diễn đạt được nội hàm đó. Thí dụ:

Thuyết “Tam quyền phân lập” là một học thuyết chính trị do nhà triết học chính trị Pháp Saclơ Môngtexkiơ (Charles Montesquieu, 1689 – 1755) đưa ra. Trong tiếng Pháp, thuyết này có tên “Séparation des pouvoirs” (A: Separation of powers), nếu dịch sát về thuật ngữ thì phải là “sự chia tách các quyền lực” chứ không phải là “tam quyền phân lập”. Tuy từ dịch này không sai so với nội hàm của khái niệm, nhưng người sử dụng cũng cần phải biết xuất xứ của nó.

“Chủ nghĩa thực dụng” (Pragmatism) là một trào lưu triết học đã và đang thịnh hành ở Mỹ. Thuật ngữ “pragmatism” (A) hay “pragmatisme (P) xuất phát từ “pragma” (số nhiều: pragmat) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “hành động”. Từ “pragma” là nguồn gốc của các từ practice (A),pratique (P), практика (N) dịch ra tiếng Việt là “thực hành” hay “thực tiễn”. Như vậy, “pragmatism” nếu dịch sát nghĩa phải là “chủ nghĩa hành động”, “triết học thực tiễn” chứ không phải là “chủ nghĩa thực dụng” như cách nói hiện nay. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dụng” trong tiếng Việt tuy cách dịch không sai so với thực chất của trào lưu triết học này (lấy công dụng, lợi ích, hiệu quả thực tế làm thước đo cho tất cả), nhưng nó lại được hiểu lệch theo một nghĩa xấu vốn không có trong thuật ngữ gốc của nó.

– Một số thuật ngữ dịch sai cả về tên và nội hàm của khái niệm.

Không chỉ có thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm”, “chủ nghĩa duy vật”, mà có nhiều thuật ngữ khác cũng được thêm từ “duy” vốn không có trong tiếng nước ngoài, thí dụ “chủ nghĩa duy thực”, “chủ nghĩa duy danh”, “chủ nghĩa duy năng”, “chủ nghĩa duy linh”, “chủ nghĩa duy ý chí”,… Chữ “duy” ở đây làm cho người ta hiểu sai là “chỉ có”, thí dụ, hiểu nhầm chủ nghĩa duy vật cho rằng “chỉ có vật chất”, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “chỉ có ý thức”… Thực ra, các trào lưu này không tuyệt đối hóa sự tồn tại của một trong hai nhân tố, mà chỉ nhấn mạnh vai trò quyết định của một trong hai nhân tố đó mà thôi.

Thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm” còn sai cả từ và nghĩa nữa. Các từ idealism (A), idéalisme(P), idealismus (Đ) xuất phát từ tiếng Hy Lạp “ιδεα” được dịch sang tiếng Anh là “idea”, “form”; tiếng Việt là “ý niệm”. Platôn – nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” là một thực thể tinh thần có trước, độc lập với sự vật cảm tính. Hêghen cũng kế thừa tư tưởng đó. Còn những nhà duy tâm chủ quan, như Đêvit Hium (David Hume, 1711 – 1776), thì lại cho rằng sự vật chỉ là “tập hợp các cảm giác” hay “tập hợp các ý niệm” (collection of ideas) của con người. Đáng lẽ “idealism” phải được dịch là “chủ nghĩa ý niệm”. Thuật ngữ Hán – Việt, “tâm” tuy cũng có nghĩa làý thức, tư duy, nhưng chỉ nói về tư duy của con người mà thôi (chỉ có thể áp dụng cho chủ nghĩa duy tâm chủ quan); trái lại, thuật ngữ “ý niệm” (idea) trong từ “idealism” theo quan niệm của các nhà triết học duy tâm khách quan thì lại tồn tại độc lập, ngoài con người.

“Chủ nghĩa kinh nghiệm” (empiricism) là khuynh hướng triết học thịnh hành ở nước Anh với Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume trong thế kỷ XVII đến các nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực chứng trong các thế kỷ XIX và XX. Thuật ngữ này tuy rất quen thuộc, song thế nào là “kinh nghiệm” thì ít người hiểu đúng, vì từ “kinh nghiệm” trong tiếng Việt và tiếng nước ngoài (εμπειρισμός (H) experientia (L), experience (A, P) không đồng nghĩa với nhau. “Kinh nghiệm” trong tiếng Việt thường được hiểu là những tri thức thu được trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chủ nghĩa kinh nghiệm được người Việt hiểu như là khuynh hướng tư tưởng coi kinh nghiệm thực tiễn là tất cả, coi thường lý luận. Tuy nhiên, trong triết học phương Tây, “εμπειρισμός”, “experience” trước hết được hiểu là tất cả những tri thức cảm tính, tức tất cả những gì do quan sát được bằng giác quan đem lại. Như vậy, “chủ nghĩa kinh nghiệm” ở phương Tây là trào lưu triết học chỉ thừa nhận những tri thức có nguồn gốc từ cảm tính hoặc có liên hệ trực tiếp với cảm tính; nó phủ nhận những tri thức do suy lý gián tiếp, phản đối phương pháp tư duy tư biện. Chủ nghĩa kinh nghiệm có thể là duy vật hoặc duy tâm. Đối với các nhà triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực chứng và thực dụng thì kinh nghiệm là tất cả, không phân biệt khách quan, chủ quan. Theo họ, vũ trụ, mặt trời, mặt trăng… đều nằm trong kinh nghiệm.

“Chủ nghĩa duy lý” (rationalism có gốc từ tiếng Latinh ratio – lý trí, lý tính, reason (A), raison(P)) là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng triết học coi lý trí là cơ sở của tồn tại, nguồn gốc và tiêu chuẩn kiểm tra chủ yếu của tri thức; đồng thời cho rằng, bằng lý trí và phương pháp suy luận diễn dịch, con người có thể nhận thức được tất cả, không cần đến kinh nghiệm. Đối lập với trào lưu chủ nghĩa duy lý còn có trào lưu “chủ nghĩa phi lý” (phi lý tính hay phi duy lý – irrationalism) phủ nhận vai trò của lý trí, lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh là một điển hình. Nó cho rằng tất cả đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, quy luật, nguyên nhân, quan hệ… và do vậy, không thể dùng lý trí để nhận thức, mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, cảm xúc mà thôi. Đừng nhầm lẫn “phi lý” (absurd) với “vô lý” (illogical). Cái vô lý là cái không hợp lôgíc, nghĩa là có thể nhận thức được bằng lý trí, nên mới biết được nó không hợp với lôgíc khách quan. Còn cái phi lý là cái không thể nhận thức được bằng lý trí, nên không thể nói gì về nó cả. Theo nhà triết học hiện sinh Pháp – Albert Camus, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống… là những cái phi lý, chúng ta chỉ có thể cảm nhận chúng mà không thể giải thích được chúng.

“Chủ nghĩa thực chứng” là gì? Nó là trào lưu triết học thịnh hành ở các nước, như Anh, Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” (Positivsm, Positivisme trong tiếng Anh, Pháp) xuất phát từ positivus (L) (positivepositif trong tiếng A,P) có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positive – negative là một cặp từ được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn như dương – âm (cực dương hay cực âm của một nguồn điện). Cặp từ này cũng có nghĩa là khẳng định (nói có) – phủ định (nói không) trong các phán đoán. Thí dụ, trong kết quả xét nghiệm một loại vi rút nếu được ghi là negative (dịch là âm tính) có nghĩa là không có virút đó. Cặp từ này còn có nghĩa là tích cực – tiêu cực. Riêng từ “positive” trong khoa học, triết học, thí dụ “positive knowledge”, “positive thinking”, có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positivism được dịch là “chủ nghĩa thực chứng” vì đây là một trào lưu triết học không thừa nhận lối tư duy tư biện và những tư tưởng tư biện; nó chỉ thừa nhận những tri thức thực chứng, tức là những tri thức xác thực, đã được chứng thực. Tuy nhiên, hạn chế của trào lưu này là chỉ giới hạn việc chứng thực các mệnh đề lý luận bằng kinh nghiệm cảm tính (quan sát, thực nghiệm).

“Chủ nghĩa hiện sinh” là gì? Thuật ngữ này rất quen thuộc nhưng ít người hiểu đúng thực chất của nó, ngay cả những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, vì thuật ngữ này trong tiếng Việt không đồng nhất với thuật ngữ gốc. “Hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa là “đang sống”, nhưng thuật ngữ gốc của nó không có nghĩa như vậy. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (Existentialism (A), Existentialisme (P) xuất phát từ gốc từ Latinh “existentia”, nghĩa thông thường là “tồn tại”. Đây là trào lưu triết học phi lý tính, phát triển mạnh ở Đức và Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Thật ra, trong ngôn ngữ thường ngày, being và existence (A) hay être và existence (P) đều có chung một nghĩa là “tồn tại”, chẳng hạn, “beingand thinking” (tồn tại và tư duy) “the existence of God” (sự tồn tại của Thượng đế). Tuy nhiên, các nhà triết học hiện sinh lại phân biệt hai khái niệm này. Theo họ, être (P); being (A); Sein (Đ) (dịch ra tiếng Việt là “tồn tại”) chỉ đơn giản là “có mặt ở đó”, nhưng không có ý thức nên vô nghĩa, không đáng quan tâm. Chỉ cóexistence (A&P); Dasein (Đ) (được dịch ra tiếng Việt là “hiện sinh” hay “hiện hữu”) là một thứtồn tại đặc biệt – tồn tại có ý thức, mới là cái đáng quan tâm. Tuy nhiên, ý thức mà họ nói ở đây không phải là lý trí hay ý thức khoa học, mà là một thứ xúc cảm chủ quan (sự lo âu, trăn trở, đau khổ, tự do, nổi loạn…) ở cá nhân riêng lẻ của con người “hiện sinh” và cảm nhận chủ quan mà con người hiện sinh gán cho đồ vật mà thôi. Nhà hiện sinh Pháp – Jean Paul Sartre (1905 – 1980) đưa ra luận điểm nổi tiếng “L’existence précède l’essence” (“hiện sinh có trước bản chất”, nhưng nhiều tài liệu nhầm là “tồn tại có trước bản chất”) nghĩa là con người sinh ra không có một bản chất vốn có nào cả; chỉ khi nào con người “hiện sinh”, tức là có ý thức về bản thân mình, tự do lựa chọn cho mình trở thành một cái gì thì anh ta mới có được một bản chất nào đó. Đồ vật chỉ đơn giản là tồn tại, nó chỉ “hiện sinh” khi con người hiện sinh đem lại cho nó một ý nghĩa nào đó. Nhà hiện sinh Pháp – Simone de Beauvoir (1908 – 1986) có câu nói nổi tiếng “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ) cũng được hiểu theo cách tương tự như vậy. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học chỉ quan tâm đến sự “hiện sinh”, một thứ tồn tại đặc biệt, chứ không phải là tồn tại nói chung.

Thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản” được dịch từ các thứ tiếng phương Tây (communism (A), communisme (P), Kommunismus (Đ), коммунизм (N). Các thuật ngữ này không hề có từ “sản” mà chỉ gần gũi với từ “chung” (common), “cộng đồng” (community). Không phải ngẫu nhiên mà một tác giả đã giải thích: “communism = common + ism”. Việc dịch thuật ngữ này thành “chủ nghĩa cộng sản” là sai cả về ngữ nghĩa và thực chất của khái niệm.Communism nếu dịch chính xác phải là “chủ nghĩa cộng đồng”, chứ không thể là “chủ nghĩa cộng sản” được. Từ “chủ nghĩa cộng sản” tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng xã hội tương lai mà chúng ta phấn đấu xây dựng phải là một xã hội mà mọi tài sản đều là của chung. Mặc dù, sau này, người ta đã cải chính rằng không phải mọi tài sản mà chỉ có tư liệu sản xuất là của chung, nhưng như vậy cũng không phản ánh được thực chất của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm “communism” phản ánh mục đích phấn đấu là cộng đồng xã hội, ưu tiên của cộng đồng xã hội so với cá nhân; còn tư liệu sản xuất chung chỉ là con đường để thực hiện mục đích, chứ không phải là mục đích.

Các thuật ngữ “conservatism”, “conservative party” được dịch sang tiếng Việt là “chủ nghĩa bảo thủ”, “đảng bảo thủ”. Các thuật ngữ này xuất phát từ động từ “conserve” (A) hay conserver (P) có nghĩa là giữ gìn, bảo tồn, bảo toàn. Cách dịch này sang tiếng Việt tuy không sai (“bảo thủ” có nghĩa là “bảo vệ, giữ gìn”), nhưng vì trong tiếng Việt, từ “bảo thủ” thường được dùng với một nghĩa xấu, do đó người ta thường hiểu sai khuynh hướng chính trị này. Thực ra, đây là một khuynh hướng triết học chính trị chủ trương giữ gìn, bảo tồn những giá trị, những thể chế (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, v.v.) đã qua thử thách trong lịch sử. Khi sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa bảo thủ”, vì không hiểu nguồn gốc của nó, nên nhiều người thắc mắc tại sao trong nhiều nước tiên tiến, đảng “bảo thủ” lại có thể được quần chúng ủng hộ, như Đảng Bảo thủ Anh đã nhiều lần nắm được ghế thủ tướng; Đảng Bảo thủ Canađa hiện nay đang nắm chính quyền ở nước này từ năm 2006 đến nay.

Không chỉ các thuật ngữ được dịch từ các tiếng phương Tây, mà ngay cả một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nga, tiếng Trung Quốc cũng không phải đã được hiểu đúng.

Tác phẩm của V.I.Lênin “Империализм, как высшая стадия капитализма” được dịch ra tiếng Việt là: “Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Đúng ra phải dịch là: “Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản”. Cần lưu ý, hai thuật ngữ “tột cùng” và “cao nhất” không hoàn toàn trùng khớp với nhau về ngữ nghĩa. “Tột cùng” còn có nghĩa là cuối cùng; còn “cao nhất” chưa hẳn là cuối cùng (vì còn có quá trình đi xuống, suy vong nữa rồi mới chấm dứt). Thuật ngữ “умирающий капитализм” được dịch ra tiếng Việt là “chủ nghĩa tư bản giẫy chết” cũng không hoàn toàn sát nghĩa. умирающий (động tính từ của động từ умирать) có nghĩa là đang chết. “Đang chết” diễn đạt một quá trình lâu dài, chết dần dần; còn “giẫy chết” cho ta ý niệm về một cái chết diễn ra rất nhanh chóng.

Câu nói của Khổng Tử: “Tính tương cận, tập tương viễn” thường được giải thích là: Tính người vốn sinh ra là gần nhau nhưng do nhiễm những thói quen, tập quán xấu ngoài xã hội, nên vì thế mà tính người trở nên xa nhau. Ta thử đối chiếu với cách dịch câu nói này trong một giáo trình triết học ở Mỹ: “By nature, men are nearly alike; by practice, they get to be wide apart” (Về bản tính, con người gần giống nhau; bằng sự rèn luyện mà họ trở nên xa nhau)(2). Tính người (human nature) phải được hiểu là bản tính tự nhiên của con người, chứ không phải là ý thức hay nhân cách, vì khi mới sinh ra, con người chưa có được những yếu tố này. “Nature” là tự nhiên khác với “culture” (văn hóa, giáo dục). Bản tính tự nhiên của con người xuất phát từ bản năng động vật, tức yếu tố “con” ở trong con người (bản năng ăn uống, tự vệ, sinh dục …) đòi hỏi phải được thỏa mãn cho cá nhân một cách tối đa, bất chấp lợi ích của người khác (từ đó sinh ra tính tham lam, ích kỷ, lánh nặng tìm nhẹ, v.v.). Tuy nhiên, nhờ lớn lên và rèn luyện trong môi trường văn hóa mà con người kìm chế được những bản năng này và phát triển những phẩm chất xã hội. Nhưng, những phẩm chất xã hội ở mỗi người là không giống nhau vì việc rèn luyện của mỗi người là khác nhau.

Bài thơ “Dạ bán” (Nửa đêm) trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh có hai câu: “Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân”, được Nam Trân giải thích: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Cách giải thích này đúng, nhưng khi dịch ra thơ, để đảm bảo vần điệu, Nam Trân dịch: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (3). Thật ra, thiện, ác dịch là hiền, dữ thì không chuẩn. Vì thiện, ác là thuộc về đạo đức; còn hiền, dữ là thuộc về cá tính; “hiền” chưa hẳn là “thiện”, “dữ” chưa hẳn là ác.

Qua một số ví dụ nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hiểu được thực chất và vận dụng đúng các thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chúng ta không có cách nào khác là phải truy tìm ngôn ngữ gốc của chúng. Mặt khác, chúng tôi đề nghị Nhà nước nên có những quy định thống nhất về cách phiên âm tên người, tên địa phương và cách dịch các thuật ngữ triết học, chính trị, xã hội tương đối thông dụng.

——————————————————————————–

(1) Cung Kim Tiến. Từ điển triết học. Nxb Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1200 -1201.

(2) Douglas J. Soccio, Archetypes of Wisdom: An Introduction to Philosophy, Wadsworth Publishing, Ohio, 2006. Giáo trình này cũng được Trường Đại học Towson sử dụng trong chương trình đào tạo quốc tế ở Việt Nam.

(3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.283.

———–

Mình rất là tâm đắc với bác Nguyễn Tấn Hùng trong bài này, hầu như là đồng ý với các ý kiến của bác, cảm thấy vui vì vẫn có những người trăn trở cho sự nghiệp “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Có điều, nói thì dễ, làm mới là khó…

Trước tiên, về vấn đề tên riêng tiếng nước ngoài, đây là 1 vấn đề đau đầu cho nx nước mà ngôn ngữ của họ không được phổ biến. Theo Đỗ Sơn Hãi thì “chân lý thuộc về kẻ mạnh (kẻ cầm micro)” => ngôn ngữ nào mạnh thì có vẻ translated version của ngôn ngữ đó sẽ thành bản “chính thống”.

Vd 1: (mình lấy Bible cho tiện) ông Xanh Pôn, mà ta vẫn quen là St. Paul trong tiếng Anh đó, thực ra trong tiếng Việt rất nhiều cách dịch. Các bản kinh thánh hồi trước mình đọc là thánh Phao-lồ, bây giờ dân đạo, chỗ thì gọi thánh Phao-lồ, người thì gọi thánh Pôn, hoặc xịn hơn – Xanh Pôn! Biết chọn cái tên nào bây giờ. Tên của ông ấy trong tiếng Hy Lạp là Παῦλος (Paulos), sau ổng đi truyền đạo và dịch tên ra tiếng Latin là Paullus (tên thật của ổng là Saul). Nếu Hy Lạp hay La Mã mà vẫn còn “có số có má” trên trường quốc tế thì hẳn chúng ta gọi ổng là Phao-lồ là ngon ăn rồi. Cơ mà tiếng Anh đang là superstar cơ, cho nên St. Paul mới là tên dc nhiều người biết nhất => Xanh Pôn or thánh Pôn! Bây giờ để tôn trọng nguyên gốc, ta cần phải mở ngoặc và bỏ tên gốc của bác ý vào, ôi trời thật là 1 MI (mission impossible) đó mà, chả lẽ chúng ta viết, vd nhé: Thánh Pôn (tên tiếng Do thái là…,  tiếng Hy Lạp là…, Latin là…, tiếng Pháp là…, tiếng Anh là…)….. Bỏ mỗi tiếng Anh vào thì thiệt cho người học tiếng Pháp, bỏ mỗi 2 tiếng này vào thì lại báng bổ bác thánh, vì bác ý biết quái j bọn người A người P, tự dưng đổi tên bác ý vô duyên thế :P. Căn cứ vào đâu để quy chuẩn hóa?

Tương tự một thánh nữa cũng vấp phải bi kịch – St. Peter, cha đẻ của Giáo hội La Mã. Ngày xưa mình đọc trong Kinh thánh thì chỉ biết tên bác ấy là thánh Phê-rô (mình tưởng St. Peter là 1 thánh khác), sau này đọc truyện cười thì hay có truyện về thánh Pi-e người giữ cửa thiên đàng (té ra là tên thánh này đọc theo French, chính là St.Pierre), tiếng Nga thì chúng ta có thành phố Xanh Pê-téc-bua, chữ “bua” nghĩa là city rồi => tên bác ấy mà đọc kiểu tiếng Nga thì sẽ là Xanh Pê-téc :P… — ôi cuộc đời em, tất cả đều là 1 bác… Gọi tên ông ấy thế nào bây giờ. Đây là mình còn chưa tìm hiểu về bản Latin, Hy lạp rồi Chinese của tên bác ấy nữa đó 😦

Vd 3: Bờ Biển Ngà (BBN), 1 nước bé tẹo ở tít tận Tây Phi, chả có gì đáng nhắc tới, trừ vài cầu thủ đá bóng. Hồi đó chả biết giải bóng đá WC năm nào có BBN, mình thấy quái, có cái nước nào mà tên hay thế. Mò mẫm trên bản đồ thì tịnh ko thấy (bản đồ tiếng Việt ý), té ra các cô các chú nhà xuất bản ghi tên là Cốt-đi-voa. Bạn mà dùng cái tên này đi tra tên tiếng Anh của nước này thì tìm tới tết Ma-rốc, trừ nx người học song ngữ Anh-Pháp. Bởi vì nó đảo trật tự tùm lum – Côte d’Ivoire (đọc là Cốt đi voa đấy) và Ivory Coast… Sở dĩ tên tiếng Pháp nổi hơn là vì nước này sử dụng Francais.

Kết luận: Vì tiếng Anh đang là ngôn ngữ chính thống cho nên sau mỗi bản tên dịch, ta nên mở ngoặc thêm English version??? (Câu hỏi mở, mềnh hem bít trả lời)

Ý số 2 thì mình đồng ý 99% những thứ bác Hùng viết, về các thuật ngữ khoa học. Cách dịch hiện nay đúng là quá problematic. Tuy nhiên, căn nguyên của vấn đề này có lẽ là do từ buổi ban đầu, các nhà học giả/học thật của VN đã dựa vào (tham khảo và sử dụng) quá nhiều các nguồn sách vở tiếng Trung Quốc. Có lẽ cách đây khoảng 100 năm, các bậc “có học” của chúng ta vẫn là những người học chữ Hán, một số người tuy Tây học nhưng lại học không sâu hoặc là không có “vai vế” trong công việc biên tập, xuất bản sách vở tài liệu? Hầu như tất cả các thuật ngữ bác Hùng đề cập đều đã được filtered 1 lần qua Chinese rồi mới tới tay người tiêu dùng VN, mà “tam sao” thì “thất bản” thôi :P.

Bây giờ solution là gì? Đúng là nên truy nguyên và “trả lại tên cho em”, nhưng mà việc này đòi hỏi nhân lực (ít ra cũng nx nhà nghiên cứu sâu trong các lĩnh vực có liên quan), vật lực và tài lực – well, cái này ko chắc à nha, tiền đâu ra mà cung cho việc điều nghiên, lại còn in ấn sửa đổi… Người mình được cái hay sống tạm bợ, qua loa; thôi thì tạm bợ cả trăm năm rồi, nốt đi chắc cũng ko chết ai 😛 (mà may ra sống tới 2012 chứ mấy) 😛

Anh Ca

About Hoasinh Anhca
Trì Trung Hoa sinh hưởng lạc - Chi Thượng Anh ca mạn đề

13 Responses to Bài viết hay: Về một số thuật ngữ triết học, chính trị – xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

  1. Si says:

    U r so cute, my sister! 🙂
    Totally agree. Khi doc bai nay thay u*ng lam.
    Bai viet can than, chu de vo cung nghiem tuc, nhung ko hieu sao nguoi truyen tin cho chung ta lai de 1 cai subject la read for fun???? Hihi. 2 gia thuyet. 1 la so theoretical qua lam nhan vien tau hoa nhap ma het, nen phai noi giam noi tranh 1 chut, cai j fun thi lai de vao dau. Gia thuyet 2 la tu vi cua vi cao thu vo lam nay da dat muc thuong thua, nen van de hoc bua nhu triet hoc doc cung thay vui nhu doc truyen chuong. 🙂

    Phan binh luan cung hay. Hoa ra moi cai ten may ong thanh thoi cung nhieu khe. Hì minh thi chang biet ong nao voi ong nao…

    Like

    • Giả thuyết 1: nghe có lý
      Giả thuyết 2: cứ cho là tu vi của chú ấy cao, nhưng mà đối tượng của tin là …… với tu vi chỉ tới mức học thuộc “CSHT quyết định KTTT”, ai biết tới tận mấy thứ -ism kia => ít khả năng
      Kekeke, Anh ca có hypo thứ 3 nà, có lẽ người truyền tin ko đồng tình vs cách nhìn của PGS. Hùng và thấy nó bùn cười chăng?
      Anh Ca

      Like

      • Si says:

        Hypo 4, agree voi bac hung, nhung trung quan diem voi nang Anh Ca la cu nhu hien nay chang chet ai ( ma dung la chua chet ai that hehe), nen co doc thi final outcome cung chi la for fun thoi (exactly what we r doing now) –> pragmatist view: judge something’ value by its pragmatic utility. The ma bao chu nghia nay chi thinh hanh o My. Cac bac ben My chi ptr ly thuyet thoi, con nang len dinh cao tot cung cua nghe thuat trinh dien phai la Vn (va tq, nho cau noi noi tieng meo den meo trang cua bac đtbinh) 😀

        Like

  2. Si says:

    By the way, why 2012?

    Like

    • OMG, người cũng có Internet, có báo chí đấy chứ, hay bị isolated rồi???
      2012 – ngày tận thế — ăn chơi j được thì tích cực đi nhé 🙂
      Anhca

      Like

  3. Si says:

    … Con binh luan cu the thi phai khi nao co thoi gian.
    Nhan vua doc den doan cuoi, 1 comment nho thoi: 2 cau dich tho cua Nam Tran, neu de nguyen thien, ac cung chang co j la sai niem luat dau. Nhung doi thanh hien, du chac vi ko muon giu nguyen tu han viet, muon dung tu nao nghe thuan viet hon cho gan gui, doan the ( mac du hien cung la 1 tu han viet hihi, tat nhien la qua tieng viet pho thong y nghia da thay doi it nhieu) –> phat huy dung tieng viet ko phu thuoc vao han viet, or chap nhan han viet la 1 phan tat yeu cua cuoc song–> another language dilemma!!!

    Like

  4. Bàn về language là 1 quá trình phức tạp, ta chỉ dám cưỡi ngựa xem hoa thôi. Thực ra các bạn po-mo vẫn có thể cãi lại vs. bác Hùng dc đấy, và kết quả sẽ rất nản lòng… Ngôn ngữ luôn thay đổi và ko có cái gọi là bản dịch chính xác – đó là sự thực mà ta phải chấp nhận (theo po-mo).
    Lúc nào có thời gian có lẽ chúng ta nên học lại 1 cách có hệ thống structuralism và postructuralism, c nghĩ thế lào?

    Keke, có điều cái câu “lúc nào có thời gian…” nghĩa của nó thường negative 😛

    Anh Ca

    Like

  5. Mà người sửa lại mấy cái sub heading đi nhìn gớm quá … xem có phải thay vì click Lưu Thủy Hành Vân người lại click nhầm mấy cái sub.cat. của nó ko…. – Hoa Sinh

    Like

    • Vấn đề là e ko hiểu tại sao nó thành như vậy và setting ở chỗ nào để nó trở lại 😦 Hay là chọn theme khác nhé.

      Anh Ca

      Like

  6. Hoasinh says:

    Rồi có lẽ vấn đề nằm đây. Giải thích của cái theme đó đây: The standout feature on Enterprise is the prominent two-level navigation with drop-down menus and, in the second level, up to 10 of your most-used categories by default. –> tóm lại là, có vẻ như dùng nhiều cái nào, thì cái đó sẽ tự động nhảy lên phía trên???
    Solution: It’s all completely customizable of course using the menus feature from Appearance → Menus. –> nàng có hứng thú thì nghiên cứu.
    Hoa Sinh

    Like

Leave a comment