Lâm Giang Tiên – Dương Thận

Nàng Yên Liên được Vũ Khánh gửi cho bản dịch bài từ này, bận cả tháng trời giờ mới có thời gian đưa lên.

Lâm Giang Tiên không phải tên bài từ, mà là tên điệu từ.

Vũ Khánh nói đây là bài từ mở đầu sách Tam Quốc Diễn Nghĩa, lười ko muốn kiểm tra lại, thôi cứ tin lời Vũ Khánh là được.

Lý Thanh Chiếu cũng viết 1 bài từ theo điệu Lâm Giang Tiên này, mà có 2 câu đầu nổi tiếng, nàng Dật Ly rất thích:

Đình viện thâm thâm thâm kỷ hử,
Vân song vụ các thường quynh

臨江仙

滾滾長江東逝水,
浪花淘盡英雄。
是非成敗轉頭空。
青山依舊在,
幾度夕陽紅。

白髮漁樵江渚上,
慣看秋月春風。
一壺濁酒喜相逢。
古今多少事,
都付笑談中。

Cổn cổn Trường Giang đông thệ thuỷ,
Lãng hoa đào tận anh hùng.
Thị phi thành bại chuyển đầu không.
Thanh sơn y cựu tại,
Kỷ độ tịch dương hồng.

Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,
Quán khan thu nguyệt xuân phong.
Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.
Cổ kim đa thiểu sự,
Đô phó tiếu đàm trung.

Bản dịch của Phan Kế Bính

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Sóng vùi dập hết anh hùng
Được, thua, thành, bại, thoắt thành không
Non xanh nguyên vẻ cũ
Mấy độ bóng tà hồng.

Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi
Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong
Một bầu rượu vui vẻ tương phùng
Xưa nay bao nhiêu việc
Phó mặc nói cười suông.

Bản dịch lục bát của Vũ Khánh

Trường giang cuồn cuộn về đông
Sóng vùi nước cuốn anh hùng còn đâu
Được thua phải trái cơ cầu
Tà dương mấy độ vẫn màu non xưa
Bạc đầu dăm bác tiều ngư
Khi noi thu nguyệt khi đùa xuân phong
Một bầu vui vẻ tương phùng
Xưa nay bao việc phó cùng chén suông

Hoa Sen

About Hoasinh Anhca
Trì Trung Hoa sinh hưởng lạc - Chi Thượng Anh ca mạn đề

13 Responses to Lâm Giang Tiên – Dương Thận

  1. E thik “đình viện thâm thâm thâm kỷ hử” trong Điệp luyến hoa của Âu Dương Tu cơ, e có biết Lý Thanh Chiếu là ai đâu ạ (gái đúng hem?)
    Đúng là bài này dc phổ nhạc làm OST cho film ROTK bản cũ đấy 😛

    Anh Ca

    Like

  2. Từ trong Thời Tống rất thịnh, mà từ thì làm để phục vụ cho hát múa sênh ca, kỹ viện ca nữ… Có lẽ vì cái thú ăn chơi “thanh nhã” (hay “sa đọa”, tùy perspective) => một xã hội “hưởng lạc” khiến nhà Tống suy yếu => diệt vong??? Lại nhớ tới anh Tống Huy Tông 😛

    Anh Ca

    Like

  3. Lý Thanh Chiếu đúng là nữ, làm từ hay nổi tiếng… – HS

    Like

  4. mà mở đầu phim hay mở đầu sách? lâu rồi ko động đến sách nên ko biết – hehe mà có động đến cũng chẳng để ý, vì sẽ ko động đến tập đầu :))))))) – Hoa Sinh

    Like

  5. Vũ Khánh says:

    Yên Liên thân mến. Sửa đi nhé, bài LÂM GIANG TIÊN: Được thua, phải trái (thị phi mà) thoắt thành không – Bản dịch của cụ Phan Kế Bính. Có người bảo: Từ Không là nhãn tự của bài từ này.
    Blog ngày càng…tiêu sái, chúc mừng, chúc mừng !

    Like

  6. Ôi chào đón anh lại chơi. Anh ơi bài dịch của cụ Phan Kế Bính là chép lại trên mạng thivien, không chính xác hả anh? Em thì ko có sách giấy bên mình để mà kiểm chứng, nhưng em kiểm tra một vài nơi trên mạng cũng đều ghi là thành bại cả, chứ ko phải phải trái??? anh có nguồn cụ thể cung cấp cho em với… Ngoài ra hình như anh hứa tặng Tử Dạ tứ thời ca… xong là anh mất tiêu luôn??? Yên Liên

    Like

    • Anh Vũ Khanh còm men chuẩn đấy c ah, ko cần nguồn j đâu, đọc nguyên văn đã thấy nghĩa rồi mà:
      – Nguyên văn “thị phi thành bại”, nghĩa là “phải trái (đúng, sai) và thắng thua”
      – Nếu dịch là “được thua, thành bại” thì lặp ý 2 lần rồi còn gì, như vậy dịch vừa thừa lại vừa thiếu 😛

      Btw, po-mo sẽ bảo là tại sao dịch “phải/trái”, ai quy định “phải” là “đúng” và “trái” là “sai”.
      Dĩ nhiên là “bới bèo ra bọ” cho vui thôi, hehe nếu mà muốn an toàn thôi thì cứ dịch “thị phi” là “đúng/sai” luôn cũng được hì hì.

      Anh Ca

      Like

      • hic, comment của anh Vũ Khánh đúng là chuẩn rồi, cũng đã cẩn thận ngó cái phần hán Việt. Chỉ thắc mắc nguyên tác bản dịch của cụ Phan Kế Bính thôi…. – HS

        Like

  7. Vũ Khánh says:

    Gửi chủ nhân tư liệu này nhé
    临江仙
    Lâm Giang Tiên

    作者:杨慎 朝代:明 体裁:词
    Tác giả: Dương Thận, triều đại: Minh, thể tài: từ.
    滚滚长江东逝水,浪花淘尽英雄。是非成败转头空。青山依旧在,几度夕阳红。
    白发渔樵江渚上,惯看秋月春风。一壶浊酒喜相逢。古今多少事,都付笑谈中。

    【注释】
    Chú giải
    ①杨慎(1488~1559),明代文学家。字用修,号升庵。新都(今属四川)人。
    Dương Thận (1488-1559), học giả thời Minh. Tên chữ Dụng Tu, hiệu Thăng Am. Là người Tân Đô (nay thuộc Tứ Xuyên).

    ②淘尽:荡涤一空。
    Đào tận: Trôi hết sạch.

    ③渔樵:渔父和樵夫。
    Ngư tiều: Ngư ông và tiều phu.

    ④渚:水中的的小块陆地。
    Chử: Cồn (bãi) giữa sông.

    ⑤浊 :不清澈;不干净。与“清”相对。浊酒 :用糯米、黄米等酿制的酒,较混浊。
    Trọc: Không trong , không sạch. Và tương đối trong. Trọc tửu: Rượu dùng các loại gạo nếp, kê vàng nấu thành, hơi vẩn đục.

    【译文】
    Diễn dịch (dịch văn):
    滚滚长江向东流,不再回头,多少英雄像翻飞的浪花般消逝,争什麼是与非、成功与失败,都是短暂不长久,只有青山依然存在,依然的日升日落。江上白发渔翁,早已习於四时的变化,和朋友难得见了面,痛快的畅饮一杯酒,古往今来的纷纷扰扰,都成为下酒闲谈的材料。
    Nước sông Trường Giang cuồn cuộn chảy theo hướng Đông, không quay đầu lại, anh hùng đều thế cả, như sóng nước tung lên rồi tan biến, tranh giành làm gì thị phi cũng như thành công hay thất bại, đều đứt đoạn cả, không gì là vĩnh cửu, chỉ có núi xanh xanh nguyên vẻ cũ và ngày ngày trôi. Trên sông ngư ông bạc tóc, từ lâu biến hóa phong tục bốn mùa, và bạn hữu dễ gì gặp gỡ, vui vẻ sảng khoái ly rượu này, mang mang trời đất xưa nay, đều biến thành chuyện phiếm trong cuộc rượu.

    【赏析】
    Phân tích, thưởng thức:
    “空”可以说是本词的词眼,几多惋惜,几多悲愤,尽归其中。
    Chữ “không” có thể nói là “mắt” (nhãn) của bài thơ (từ), bao nhiêu tiếc thương, bao nhiêu bi phẫn, cuối cùng đều ở trong đó.
      
    这首词,词牌叫“临江仙”为杨慎《廿一史弹词》第三段《说秦汉》开场词。
    Bài từ này, tên gọi là “Lâm Giang Tiên” bởi Dương Thận, trong phần mở đầu “Thuyết Tần – Hán”, khúc thứ ba của “Niệm nhất sử đàn từ” .

      杨慎(1488—1559),字用修,号升庵,四川新都人。明朝中叶杰出的词人。正德六年进士。官经筵讲官。以直谏忤旨,被明世宗廷杖谪戍云南永昌, 年七十二,死于贬所。升庵博闻广识,著述极富,为明代第一。诗风渊博缛丽,词则华美流利,好入六朝丽字,似近而远,然其妙处亦能过人。
    Dương Thận (1488-1559), tự Dụng Tu, người Tân Đô, Tứ Xuyên. Là người viết từ kiệt xuất giữa thời Minh. Niên hiệu Chính Đức, làm tiến sĩ 6 năm. Quan kinh diên giảng quan. Do cả gan can gián, bị Minh Thế Tông phạt gậy, giáng chức điều đi Vĩnh Xương, Vân Nam. Năm 72 tuổi, chết ở nơi bị giáng chức. Thăng Am kiến thức sâu rộng, sáng tác phong phú, vào loại đứng đầu đời Minh. Phong cách thơ ca uyên bác, trang nhã, quy cách từ hoa mĩ, lưu thuận, tạo cái hay cho lục triều, gần đấy mà xa, tự nhiên giản dị mà vượt trội hơn người.

      这首词虽为《说秦汉》的“开场词”,但作者的视野并没有局限在秦汉两朝具体的史实上,而是高屋建瓴,从具体的历史事件和人物经历中概括出一些古代社会人们始终能产生共鸣的思想感情。
    Bài từ này, tuy là lời mở đầu của « Thuyết Tần – Hán », nhưng tầm mắt của tác giả không bị hạn chế bởi sự thực cụ thể của hai triều Tần và Hán, mà cảm hứng “mạnh như thác đổ”, từ trong lịch sử nhân vật và sự kiện lịch sử cụ thể khái quát lên tư tưởng, tình cảm của con người xã hội cổ đại từ bắt đầu đến kết thúc đều chan hòa gắn bó.

      
    上片只写古来多少英雄是非成败,犹如大浪淘沙转眼成空。头两句化用了杜甫《登高》诗“不尽长江滚滚来”,苏轼《念奴娇•赤壁怀古》词“大江东去,浪淘 尽,千古风流人物”之意,抒发对历史变迁、英雄随着时光消逝的感慨。第三句则是作者经过思考后,透过历史的表象得出的结论。作者认为,英雄豪杰们长眠地下 之后,生前的是非得失,荣辱成败又有什么意义呢?这一句贵在一个“空”字。“空”可以说是本词的词眼,几多惋惜,几多悲愤,尽归其中。它不仅是作者追溯历 史后的结论,而且是他对待自己历尽坎坷人生的达观态度。“青山”句乃是写自然,意为“万般回首化尘埃”,只有青山不改。“夕阳”句亦写自然,“几度”谓 “难得”,而“夕阳红”象征人生中短暂的美好时光,它在横亘古今的“青山”面前是微不足道的。这两句看似写景,其实在景语中蕴含了丰富深邃的人生哲理,只 要稍加体会,就能感受到作者的感伤情结。
    Phần đầu viết: Xưa nay bao nhiêu anh hùng phi thành bại, cũng như sóng lớn chớp mắt đã làm mọi thứ thành không. Hai câu đầu mượn ý Đỗ Phủ trong bài thơ “Đăng cao”: “Bất tận Trường Giang cuồn cuộn chảy” (Bất tận Trường Giang cổn cổn lai), mượn ý Tô Thức trong bài từ “Niệm nô kiều-Xích Bích hoài cổ”: “Sông lớn hướng đông chảy, sóng lớn tới tận cùng, cổ kim người vật hữu tình” (Đại giang đông khứ, lãng đào tận, thiên cổ phong lưu nhân vật). Đó là biểu đạt đối với biến thiên của lịch sử, cảm khái của anh hùng thùy huy hoàng hay tàn tạ. Câu thứ ba thông qua suy nghĩ của tác giả, thông qua biểu tượng của lịch sử mà kết luận. Tác giả cho rằng, các anh hùng hào kiệt, khi sống không thất bại, giờ đã an giấc ngàn thu, liệu vinh nhục, thành bại còn có ý nghĩa không? Đây là câu đắt, trong đó có chữ “không”. Chữ “không” có thể nói là “mắt” (nhãn) của bài thơ (từ), bao nhiêu tiếc thương, bao nhiêu bi phẫn, cuối cùng đều ở trong đó. Nó không những là kết luận sau khi tác giả ngược dòng lịch sử, mà còn là thái độ bình thản của tác giả đối với cuộc sống không bằng phẳng của chính mình. “Thanh sơn…”, câu này viết về tự nhiên, ý là: “Vạn vật biến đổi nhanh đến mức, chỉ cần quay đầu lại đã hóa bụi trần”, chỉ có núi xanh là không đổi. Câu “Tịch dương…” cũng viết về tự nhiên, “kỷ độ” thật “khó đạt”, mà “kỷ dương hồng” giống như trong thời kỳ tốt đẹp, chinh nhân phải tạm thời dời xa, lên đường, sự này “thanh sơn” vắt ngang cổ kim, mà trước mặt nhỏ bé không đáng kể. Hai câu này giống như tả cảnh, kỳ thực ngôn ngữ trong cảnh bao hàm triết lí nhân sinh phong phú thâm sâu. Càng muốn lĩnh hội thêm, thì cảm thụ được tình cảm cảm thương của tác giả.

      下片写江上渔樵闲话,娓娓动听。“白发渔椎”是作者塑造的形象,我们甚至可以认为,此翁正是作者的化身。词的一、二句写老翁的生活环境和生活内容。他 远离尘嚣,遁迹山林,月复一月,年复一年,看惯了“江上之清风”和“山间之明月”(苏轼《前赤壁赋》),与世无争,其乐无穷,是一位志向高洁、风怀潇洒的 老人。第三句写老翁的生活情趣,他并不是不食人间烟火,断绝一切人际交往的隐者,而是仍旧同世俗社会保持着联系。“美酒要逢知己饮,好诗须向会家吟”(杨 慎《说三代》)。“一壶浊酒”以“秋月”“春风”为背景,正显示出作者淡泊、高雅的襟怀和朋友之间的志趣相投。最后两句直揭“白发渔樵”并非胸无点墨的老 翁,而是通晓古今、博学多识、知权达变的高士,他把古今多少英雄的是是非非、恩恩怨怨、成败荣辱都化作可助酒兴的谈资;在笑谈之中,纵论古今,品评人物, 其旷达和豪放可以想见。我们不难发现,在老翁身上有许多同渔樵的身份不相符合的特征,这正是作者的性格和人生理想的反映。
    Phần sau viết trên sông ngư ông, tiều phu nói chuyện phiếm, êm tai nghe. “Bạch phát ngư tiều” là tác giả miêu tả hình tượng, chúng ta thậm chí có thể cho rằng, ngư ông này chính là tác giả hóa thân. Câu 1, 2 phần sau của bài từ viết về nội dung sinh hoạt, hoàn cảnh sinh hoạt của ngư ông. Người cách xa chốn huyên náo, ẩn tích nơi sơn lâm, tháng lại tháng, năm lại năm, “du dương với gió mát trên sông” (giang thượng chi thanh phong) và “bát ngát với trăng sáng của núi” (sơn gian chi minh nguyệt) (Trích trong “Tiền Xích Bích phú), không tranh thế sự, chỉ vui với vô cùng, là người có chí hướng cao thượng, phóng khoáng. Câu thứ ba viết về hứng thú sinh hoạt của ngư ông, ông ta không phải là không nổi lửa ăn cơm, hay là người ẩn tích đoạt tuyệt hoàn toàn với mọi người, mà vẫn liên hệ với xã hội như cũ. “Rượi ngon mà gặp bạn hiền; Thơ hay thuận hướng ta liền ngâm nga” (Mỹ tửu yếu phùng tri kỷ ẩm; Hảo thi thuận hướng hội gia ngâm) (Trích trong “Thuyết tam đại” của Dương Thân). “Nhất hồ trọc tửu” với bối cảnh “thu nguyệt”, “xuân phong”, biểu hiện sự thanh bạch, tấm lòng cao thượng của tác giả, tâm đầu ý hợp giữa bạn bè. Hai câu cuối cùng bày tỏ ngư ông trong “bạch phát ngư tiêu” không hề tầm thường, mà rất thông hiểu cổ kim, kiến thức bác học, cao sĩ của “tranh quyền đoạt biến”. “Ông” đã mang chuyện thành bại, vinh nhục, ân oán, thị phi của biết bao anh hùng hóa thành đề tài trong lúc hứng khởi uống rượu. Trong chuyện vui cười, thoải mái chuyện cổ kim, bình luận nhân vật, trong cái phóng khoáng, khoáng đạt mà có được. Chúng ta không khó để phát hiện, trong bản thân ngư ông của bài từ có rất nhiều đặc trưng giống và không giống thân phận ngư ông, tiều phu. Đây chính là sự phản ánh tư tưởng nhân sinh và tính cách của tác giả.

      这首词可称为“史论”。它综观历代兴亡盛衰,以英雄豪杰的成败得失抒发感慨,表现出一种旷达超脱乃至“大彻大悟”式的历史观和人生观。
    汉语百科.
    Bải từ này còn gọi tên là “Sử luận”. Nó tổng quan hưng vong thịnh phế các triều đại, từ biểu đạt cảm khái thành bại của anh hùng, hào kiệt, đã biểu hiện một loại nhân sinh quan và thế giới quan thoải mái, khoáng đạt đến độ tự nhiên “đại triệt đại ngộ”.

    • 临江仙
    • 唐 教坊曲,双调小令,用作词调。又名《谢新恩》、《雁后归》、《画屏春》、《庭院深深》、《采莲回》、《想娉婷》、《瑞鹤仙令》、《鸳鸯梦》、《玉连环》。 敦煌曲两首,任二北《敦煌曲校录》定名《临江仙》,王重民《敦煌曲子词集》作《临江仙》。《乐章集》入“仙吕调”,《张子野词》入“高平调”。五十八字, 上下片各三平韵。约有三格,第三格增二字。柳永演为慢曲,九十三字,前片五平韵,后片六平韵。此词共六十字。至今影响…查看全文
    杨慎所有作品
    • 滇海曲
    • 滇海曲

    Like

  8. Cảm ơn anh, nhưng cái em thắc mắc ko phải là cụ Phan Kế Bính dịch đúng hay sai, mà là nguyên tác cụ dịch thế nào? Kể cả cụ có dịch ko sát nguyên tác thì cũng vẫn phải tôn trọng bản dịch.
    Nàng Anh Ca, được thua thành bại ko phải là lặp lại đâu nhé…. -HS

    Like

    • Hehe, đã hiểu ý số 1, só rì người :P.
      Ý số 2: e vẫn nghĩ là được thua – thành bại thì nó cũng hơi tương tự, dĩ nhiên thành bại nghĩa rộng hơn 1 chút 🙂

      Like

  9. Si says:

    nang Anh Ca, bai nang viet hom no ma minh dinh skip chua dua len facebook, nang dua len day cung duoc. – HS

    Like

  10. Pingback: Đại Đăng Xuyên – Lê Quý Đôn « Hoasinh_Anhca

Leave a comment